BA ĐẬU

Ba đậu có tên gọi khác là ba đậu tàu, mần để, mác vát, purgin croton, croton – oil plant, bois purgatif, bois des Molusques.

Mô tả

Cây ba đậu là cây nhỡ, cao 3-6m. Vỏ thân nhẵn. Cành non hình trụ, màu nâu nhạt, có nhiều lỗ bì. Lá mọc so le, hình bầu dục, gốc tròn có 2 tuyến nhỏ, đầu nhọn, dài 6-8 cm, rộng 4-5 cm, khi khô có màu vàng, mép khia răng; lá non màu hồng đỏ; 5 gân chính tỏa từ gốc lá.

Cụm hoa mọc thành chùm ở ngọn, dài 10 – 20 cm, gồm hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới; hoa đực có cuống mảnh và nhẵn, lá dài 5, hình bầu dục có lông ở đầu, cánh hoa 5, thuôn, có lông mịn ở mép và mặt trong, nhị 17, bao phấn thuôn; hoa cái có cuống phủ lông tơ hình sao, lá dài 5 thuôn nhọn, cánh hoa 1-2 hoặc không có, có lông mịn ở mép, bầu hình cầu, có nhiều lông, vòi nhụy 3 xẻ đôi.

Quả nang hình trứng hoặc hình cầu, nhãn, màu vàng nhạt; hạt có vỏ cứng, màu nâu xám.

Mùa hoa; tháng 5-7, mùa quả: tháng 8-10.

Phân bố, sinh thái

Croton L. là 1 chi lớn của họ Thầu dầu. Tổng số loài trên thế giới vào khoản 800, bao gồm các đại diện là cây gỗ, cây bụi hoặc thảo, phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và cả ở vùng ôn đới ấm.

Chi Croton L. ở VN có đến 43 loài thứ, trong đó có cây ba đậu là loài phân bố tương đối rộng rãi ở hầu hết các tỉnh vùng núi thấp (dưới 1000m) và trung du. Đôi khi cũng gặp cả ở đồng bằng. Ở miên Bắc các tỉnh có nhiều ba đậu là Yên Bái, Tuyên Quang, Hòa Bình, Sơn La, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thanh Hóa…. Ba đậu cũng phân bố phổ biến ở một số nước khác  như Lào, Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ, Srilanka, Myanmar,.. một số nơi ở Ấn Độ còn trồng cây này để lấy hạt ép dầu.

Ba đậu thuộc loài cây gỗ nhỡ, lúc nhỏ hơi chịu bóng, sau trở nên ưa sáng. Cây mọc lẫn với các loại cây bụi, dây leo khác ở các loại hình rừng thứ sinh, đồi cây bụi và quanh nương rẫy. Cây mọc từ hạt sau 2-3 năm bắt đầu có hoa quả, các năm sau thường xuyên hơn. Tuy nhiên, chỉ những cây được chiếu sáng đầy đủ mới có hoa quả nhiều. Lượng tái sinh cây con từ hạt khá. Cây cho gỗ cứng, thường được sử dụng làm củi đun hoặc đồ nông cụ (cán cuốc , xẻng,..)

Cách trồng

Ba đậu không kén đất, có thể hơi chịu hạn, sinh trưởng phát triển mạnh vào mùa hè, tàn lụi và rụng lá vào mùa đông. Cây được trồng ở các vườn cây thuốc, vườn thực vật và rải rác ở các gia đình.

Ba đậu có thể nhân giống được bằng hạt và bằng cành, nhưung chủ yếu là dùng hạt. Hạt ba đậu nhiều, dễ nảy mầm, được gieo vào tháng 2-3. Cây con được đánh đi trồng vào tháng 8-9 hoặc mùa xuân năm sau.

Đất nào cũng trồng được ba đậu, miễn là cao ráo, thoát nước, không bị úng ngập. Khi trồng, người ta đào hố sâu 60cm, rộng 50-70cm, cách nhau 4-6m, bón lót cho hố 8-10kg phân chuồng hay phân xanh, trộn đều phân với đất. Sau đó đặt cây, lấp đất và tưới ẩm. Hàng năm, cần xáo xới, bón thúc bằng phân chuồng hoặc phân vi sinh tạo điều kiện cho cây ra hoa kết quả.

Hạt ba đậu vừa dùng làm thuốc, vừa có thể dùng để chế biến thành thuốc trừ sâu mọt rất tốt. Vào tháng 8-9 thì quả chín, người ta thu về phơi khô đập lấy hạt.

Bộ phận dùng

Hạt thu hái ở quả vào tháng 8-9 khi chưa nứt vỏ, phơi khô để nguyên cả quả cho dễ bảo quản. Ngoài ra lá và rễ đôi khi cũng được dùng.

Do hạt ba đậu có chứa loại dầu rất độc, nên khi dùng phải khử bớt độc.

Có 2 cách làm giảm độc như sau:

1. Bỏ vỏ, giả nhỏ nhân hạt, quấn giấy bản rồi ép, giấy sẽ thấm dầu. Thay giấy mới nhiều lần, ép cho đến khi hết kiệt dầu rồi đem sao cho vàng. Sản phẩm chế theo kiểu này được gọi là “ba đậu sương”.

2. Làm khô như trên rồi sao già cho đến khi có màu đen, loại này được gọi là “hắc ba đậu” có độc thấp hơn.

Tác dụng dược lý

Dầu ba đậu là 1 loại thuốc tẩy mạnh nhất trong các loại thuốc tẩy. Ngay cả với liều nhỏ, nó gây tẩy mạnh và nôn. Dầu ba đậu còn là 1 loại thuốc gây sung huyết da rất mạnh, khi bôi vào thì thấy da nóng bỏng và phồng lên, mọng nước, sau đó thành mụn và tróc da.

Tính vị, công năng

Vị cay, tính nóng, rất độc. Vào 2 kinh: vị và đại tràng. Phá tích, tục đàm, hành thủy.

Công dụng

Hạt ba đậu chứa dầu rất độc (bảng A). Thường dùng hạt dưới dạng ba đậu sương hoặc hắc ba đậu.

Chữa hàn tích đình trệ, bụng đầy trướng, đại tiện bí kết, ho nhiều đờm loãng, thủy thũng.

Ngày dùng 0.01 – 0.05 ba đậu sương, có thể làm viên hoặc chế cao. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.

Trong y học Ấn Độ, dầu ba đậu có trong thành phần của 1 số thuốc xoa gây sung huyết da, được áp dụng trong trường hợp viêm phổi, đau dây thần kinh hông, và 1 số bệnh khác. Nhưng biện phát này không được coi là an toàn vì có thể gây tróc da. Đôi khi dùng ba đậu là 1 thành phần trong những thuốc bôi dẻo làm rộp da ở thú y, nhưng ít khi dùng làm thuốc tẩy. Gỗ cây ba đậu được coi là có tác dụng làm chảy mồ hôi với liều nhỏ, có tác dụng tẩy và gây nôn với liều lớn.

Ở 1 địa phương vùng Đông Bắc Ấn Độ, người ta dùng 1 bài thuốc trong có ba đậu để chữa vàng da.

Kiêng kỵ: Ba đậu có độc tính mạnh, nên không dùng cho người thể trạng yếu, phụ nữ có thai và người đang sốt nóng.

Khi bào chế ba đậu cần bảo vệ mắt và tay vì dầu ba đậu gây rộp da.

Không dùng chung với hạt bìm bìm biếc (khiên ngưu tử).

Chú ý: ba đậu rất độc, không được dùng quá liều. Nêu dùng ba đậu, mà không đi tiểu được thì uống thêm nước cháo nóng. Ngược lại, nếu uống ba đậu mà đi tả không dứt, uống nước cháo nguội sẽ ngừng ngay. Khi ngộ độc ba đậu, cho uống hoàng liên hoặc dùng đậu đen, hoặc đậu xanh nấu nước uống để giải độc.

Bài thuốc có ba đậu

1.Tam vật bạch thang, chữa viêm niên mạc dạ dày cấp tính, đau bụng.

Ba đậu sương 1g, cát cánh 3g, bối mẫu 3g. Tất cả đều tán bột, trồn đều. Mỗi lần uống 0.2g chiêu thuốc với nước ấm.

2. Chữa đau bụng, viêm dạ dày

Ba đậu sương 0.5g, nhục quế 3g, trầm hương 2g, đinh hương 3g. Tất cả đều tán bột mịn, trộn đều. Mỗi lần dùng 0.5g đến 1g, chiêu thuốc với nước.

3. Chữa thủy thũng

Ba đậu 200g, hạnh nhân3g. Bào chế thành viên cỡ bằng hạt đậu xanh. Ngày uống 3-6 viên. Uống đến khi có tác dụng lợi tiểu và đi ngoài nhuận thì thôi.

4. Chữa tỳ vị lạnh trệ, tích tụ và đại tiện bí kết bụng căng

Ba đậu sương, can khương, đại hoàng đều bằng nhau, tán bột mịn làm thành viên với mật, mỗi lần uống 0.5g – 1g.

5. Chữa trúng phong sùi đờm rãi, hôn mê, cấm khẩu

Dùng giấy bản bọc hạt ba đậu đập giập ép cho dầu thấm vào, cuộn giấy đó đốt lên để xông và thổi khói vào mũi họng thì tỉnh.

6. Chữa các chứng tích báng:

Ba đậu 21 hạt đập giập, gạo cũ 4 lạng cùng rang, đến khi gạo vàng, bỏ ba đậu lấy gạo, thêm trấn bì 4 lạng, tán bột làm viên với hồ bằng bột đậu, uống mỗi lần 5 viên. Ngày uống 2 lần với nước gừng.

7. Chữa cổ trướng màng bụng đầy nước

Ba đậu sương 12g, phèn đen 40g nung đỏ, tán bột làm viên, uống ngày 1 lần 1-2g.

8. Diệp thị dưỡng vị thang, chữa vị âm hư, thường gặp ở những người sau khi mắc các bệnh nhiễm khuẩn có sốt cao đã khỏi

Ba đậu sương 0.1g, mạch môn 12g, thạch hộc 12g, tang điệp 12g, sa sâm 12g, bạch truật 10g, ngọc trúc 8g, ô mai 6g, ma hoàng 4g.

Các triệu chứng của âm vị hư là miệng họng khô, nhất là sau khi ngủ dậy, sốt nhẹ trằn trọc, không muốn ăn, táo bón, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sắc. 

Bài thuốc có tác dụng dưỡng âm hòa vị.

9 Viên trừ đờm

Hạt ba đậu 4g, nam tinh chế 20g, bán hạ chế 20g, bồ kết chế 20g, phèn chua phi 20g, hạnh nhân 4g.

Tán bột, làm viên, mỗi ngày uống 10g, chia làm 2 lần. Chữa đàm thấp: ho hay tái phát, trời lạnh ho tăng lên, đờm dễ khạc, sắc trắng loãng hoặc thành cục dính, buổi sáng ho nhiều, ngực đầy tức, ăn kém, rêu lưỡi trắng dính, mạch nhu hoạt.